Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

Quảng Ngãi trưng bày cổ vật quí hiếm từ tàu đắm

Các cổ vật gồm dĩa, lọ, chuỗi đeo cổ, chén, tượng....Có niên đại từ thế kỉ 13 - 17.

Đây là lần đầu tiên, các cổ vật hiếm, quí và độc bản được đưa ra trưng bày ở Quảng Ngãi. Theo tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, GĐ Sở VH-TT&DL Quảng Ngãi, ngoài cổ vật đã được khai quật tại khu vực biển Bình Châu (xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), còn có nhiều cổ vật được khai quật từ vùng biển cù lao chàm (tỉnh Quảng Nam).

Theo đánh giá của ông Lâm Dũ Xênh, một trong những người nghiên cứu và sưu tầm đồ cổ ở Quảng Ngãi, trong số các cổ vật được trưng bày, ngoài giá trị về văn hóa, giá trị kinh tế cũng rất cao, với nhiều cổ vật phải tính hàng trăm triệu đồng/vật.

Được biết, thời gian trưng bày sẽ kéo dài từ ngày 13 – 17/10/2014.

MINH PHÚ

Ngắm những cổ vật độc đáo vớt lên từ đáy biển Việt Nam

Những hiện vật được trưng bày tại triển lãm

Các cổ vật được trưng bày tại triển lãm đều rất đáo, quý hiếm được trục vớt từ các tàu đắm cổ tại vùng biển Bình Châu - Quảng Ngãi và các vùng biển Việt Nam như cù lao chàm - Quảng Nam và các tỉnh Bình Thuận, Cà Mau, Vũng Tàu. Nhiều cổ vật dưới nước được phát hiện trục vớt trưng bày có nhiều niên đại từ thế kỷ 13 đến 19.

Những hiện vật được trưng bày tại triển lãm

Tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao du lịch Quảng Ngãi cho biết, triển lãm lần này nằm trong chuỗi hoạt động của Hội thảo Khoa học quốc tế chủ đề “Khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam và Đông Nam Á: Hợp tác để phát triển” do Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam và Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch Quảng Ngãi tổ chức tại Quảng Ngãi trong hai ngày 14 và 15/10.

Dòng gốm Chu Đậu được tìm thấy ở Cù Lao Chàm, Quảng Nam

Hũ gốm hình cầu

Phần lớn được tìm thấy dưới nhiều vùng biển

Lọ gốm hình củ tỏi độc đáo

Hoa văn tinh xảo

Nhiều cổ vật hình động vật

Những cổ vật trên những con tàu đắm ở biển Việt Nam

Phần lớn đều có niên đại từ thế kỷ 13 - 17

Những hiện vật thu hút rất đông người xem

Cận cảnh cổ vật trên các con tàu đắm ở vùng biển miền Trung

 
 

Súng, đạn thần công thời Nguyễn (Việt Nam) thế kỷ 19

Cuộc triển lãm thu hút nhiều chuyên gia khảo cổ học trong nước, quốc tế cùng người dân đến thưởng lãm hơn 500 cổ vật tìm thấy ở vùng biển miền Trung trong những năm qua.

Cổ vật gồm: đồ gốm, đồ đá Chăm Pa phát hiện ở con tàu đắm tại vùng biển Núi Thành (Quảng Nam); gốm Chu Đậu thời Lê thế kỷ 15, sản xuất tại Hải Dương (Việt Nam) với các loại bình, đĩa, lọ, cốc, chén, tượng sứ có hoa văn trang trí tinh xảo được trục vớt tại vùng biển cù lao chàm (Quảng Nam).

Ngoài ra còn có bộ sưu tập cổ vật gốm sứ thời Tống, Nguyên thế kỷ 13-14, cổ vật gốm, đồ đồng triều Tuyên Đức (1426-1435); gốm sứ thời Minh thế kỷ 15 phát hiện và trục vớt tại vùng biển Bình Châu (Quảng Ngãi) và các loại súng thần công, đạn thần công thời Nguyễn (Việt Nam) thế kỷ 19…

Theo tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở VH-TT-DL Quảng Ngãi, vùng biển miền Trung Việt Nam với một bờ biển dài và gồm cả những quần đảo lớn ngoài khơi xa như Hoàng Sa, Trường Sa đã trở thành chiếc cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo.

Tại các vùng biển Cù Lao Chàm, Núi Thành (Quảng Nam), Bình Châu, Bình Phú, Lý Sơn (Quảng Ngãi), Hòn Cau (Bình Thuận), Khánh Hòa… ngư dân đã phát hiện rất nhiều xác tàu đắm cùng vô số cổ vật là gốm sứ và một số đồ dùng của thủy thủ đoàn rất có giá trị.

Cũng theo tiến sĩ Vũ, cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của “con đường gốm sứ trên biển” ở vùng biển miền Trung Việt Nam để giới thiệu cho mọi người hiểu về các sưu tập cổ vật thuộc di sản văn hóa dưới nước để từ đó có thái độ ứng xử với biển và phương thức bảo vệ, bảo tồn.

 


Cổ vật gốm sứ và đồ đồng thế kỷ 13 phát hiện trên tàu cổ đắm tại vùng biển Bình Châu (Quảng Ngãi) năm 2012


Cổ vật đồ đồng và gốm sứ thế kỷ 15 phát hiện trên tàu cổ đắm tại vùng biển Bình Châu (Quảng Ngãi) năm 1999


Sưu tập cổ vật gốm Chu Đậu thời Lê Việt Nam thế kỷ 15 được trục vớt tại vùng biển Cù Lao Chàm (Quảng Nam)


Đồ đá và đồ gốm Chăm Pa phát hiện ở con tàu đắm tại vùng biển Núi Thành (Quảng Nam)


Nhiều chuyên gia khảo cổ học nước ngoài tìm hiểu các cổ vật trục vớt trên vùng biển miền trung Việt Nam

 

Tin, ảnh: Hiển Cừ

Bảo tồn biển phải gắn với chia sẻ lợi ích cho cộng đồng

Buổi sáng trên vùng biển Cát Bà. Ảnh: N.B
Cần một cơ chế quản lý thống nhất

Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám, đến nay, hệ thống cơ chế, chính sách cho KBTB về cơ bản đã hình thành tương đối đồng bộ, gồm: Luật Thủy sản, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học (ĐDSH); Chiến lược quản lý hệ thống rừng đặc dụng, KBTB, khu bảo tồn vùng nước nội địa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH của cả nước đến năm 2020, định hướng đến 2030; Quy hoạch hệ thống KBTB Việt Nam… Tuy nhiên, quy định tại các văn bản có sự khác biệt nhau, gây lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch hệ thống KBTB.

Trước những bất cập, chồng chéo trong hệ thống văn bản pháp luật, ông Nguyễn Văn Hưng, nguyên Vụ phó Vụ kinh tế ngành, Văn phòng Chính phủ cho rằng: Ưu tiên đầu tiên hiện nay là xây dựng lại nghị định hướng dẫn thay thế Nghị định 57, đảm bảo không "đá" Luật ĐDSH và phù hợp với thực tiễn. "Nghị định mới cần xác định rõ KBTB bảo vệ cái gì, vì mục đích kinh tế, nghiên cứu khoa học hay an ninh-quốc phòng. Sau đó xác định phạm vi, quy mô, cơ chế quản lý, mức đầu tư. Cần nghiên cứu cơ chế chính sách để huy động tất cả các thành phần kinh tế tham gia cũng như sự đầu tư ngân sách Nhà nước" - Ông Hưng nói.

Tuy nhiên, ông Hưng cũng lưu ý: "Ở KBTB, nếu chỉ thiên về khoa học thì rất khó bền vững, vì vậy, phải tính tới lợi ích của người dân". Cũng theo ông Hưng, cần phải rà soát, quy hoạch lại các KBTB theo hướng xác định rõ hơn KBTB nào do Trung ương thành lập và quản lý, khu nào giao cho địa phương.

Dưới góc nhìn của một chuyên gia, ông Vũ Dũng, chuyên gia về quy hoạch rừng ngập mặn khẳng định: “Hệ sinh thái rừng và biển có liên hệ chặt chẽ với nhau, vì vậy, khi quy hoạch, thành lập các KBTB không thể tách rời hệ thống rừng với hệ sinh thái biển. Do đó, cần phải quy hoạch thống nhất lại KBTB và khu rừng ngập mặn".

Theo GS.TS Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, hệ thống 16 KBTB Chính phủ phê duyệt có ý nghĩa, tầm vóc hết sức lớn. Hệ thống KBTB chính là nguồn vốn thiên nhiên để bảo đảm cho tăng trưởng xanh và phát triển kinh tế biển. Nếu chúng ta thực hiện tốt hệ thống này sẽ góp phần thực hiện những chính sách lớn của đất nước. Hơn nữa, trong bối cảnh Biển Đông phức tạp như hiện nay, việc làm tốt mạng lưới KBTB góp phần tác động để khu vực có lòng tin hơn trong việc thiết lập các khu bảo tồn xuyên biên giới - một giải pháp hòa bình trên Biển Đông. Chúng ta phải mạnh dạn phân cấp cho địa phương quản lý, các bộ, ngành Trung ương chỉ nên tham gia quản lý và trực tiếp quản lý đối với những khu vực biển điển hình. Nếu không phân cấp triệt để sẽ làm cho cơ chế xin cho còn nặng. Điều này mất cảm hứng của các địa phương về KBTB.

Bàn về vấn đề xây dựng thể chế pháp luật, GS.TS Chu Hồi nhấn mạnh: "Phải giải quyết triệt để vấn đề xây dựng luật, để làm sao các nghị định, văn bản pháp luật không chồng chéo, không dẫm lên nhau. Trong quá trình quản lý, chúng ta nên áp dụng tiếp cận quản lý tổng hợp KBTB, vì hầu hết các KBTB nằm ở ven bờ, chịu tác động rất nhiều từ bên ngoài, kể cả từ lưu vực. Khi triển khai thành lập KBTB nên ưu tiên những khu bảo tồn nằm trong diện ưu tiên về kinh tế, quốc phòng an ninh như đảo Trần, Bạch Long Vỹ và đảo Lý Sơn".

Về việc huy động nguồn lực kinh tế cho KBTB, GS.TS Hồi cho rằng, nên tranh thủ các dự án, chương trình quốc tế có mục đích bảo tồn, ví dụ như Quỹ Dự án nhỏ (SGF), Chương trình rừng ngập mặn cho tương lai (MFF) hoặc Quỹ môi trường toàn cầu...
 
du lịch bơi, lặn biển tại cù lao chàm thu hút khá nhiều du khách. Ảnh: Mạnh Trinh.

Tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng

Một bài học kinh nghiệm được rút ra khi thành lập các KBTB là phải kết hợp hài hòa công tác bảo tồn với phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Đó vừa là mục tiêu, vừa là phương thức để các KBTB tồn tại và phát triển. Ông Huỳnh Văn Thải, Giám đốc Ban quản lý KBTB Hòn Cau khẳng định: Để thực hiện được việc quản lý và khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản trong KBTB thì phải thực hiện tốt công tác quản lý của KBTB và các chương trình bảo tồn. Muốn huy động được người dân tham gia bảo tồn biển thì KBTB phải mang lại lợi ích thiết thực cho người dân. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để kết hợp hài hòa giữa mục tiêu bảo tồn và khai thác tài nguyên trong KBTB phục vụ phát triển kinh tế của địa phương, đảm bảo sinh kế cho người dân.

Từ kinh nghiệm của địa phương mình, ông Nguyễn Văn Điệp, Phó Giám đốc Vườn quốc gia Núi Chúa cho rằng, phát triển du lịch sinh thái cộng đồng được coi như một sinh kế thay thế nhằm bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Trong hệ thống KBTB của Việt Nam, Cù Lao Chàm có thể được coi là một ví dụ điển hình về việc kết hợp hài hòa giữa mục tiêu bảo tồn với phát triển kinh tế. Cộng đồng cư dân trong KBTB được tạo sinh kế bền vững để phát triển kinh tế gia đình. Khi lợi ích kinh tế được đảm bảo, người dân sẽ tích cực tham gia công tác bảo tồn. TS Chu Mạnh Trinh, KBTB Cù Lao Chàm cho hay: Du lịch sinh thái phát triển đã và đang tạo cơ hội cho người dân cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đến năm 2013, đã có 169/560 hộ gia đình ở đảo tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch sinh thái với hơn 12 loại hình sinh kế mới.
Ngày 26-5-2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 742/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch hệ thống KBTB Việt Nam đến năm 2020 (gồm 16 khu). Tới thời điểm hiện tại, mạng lưới 9/16 KBTB tại Việt Nam đã được thành lập gồm: Cát Bà, Bạch Long Vỹ (Hải Phòng), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), vịnh Nha Trang (Khánh Hòa), Núi Chúa (Ninh Thuận), Hòn Cau (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Phú Quốc (Kiên Giang).

Theo TS Chu Mạnh Trinh, du lịch sinh thái cần đảm bảo được hai yếu tố cơ bản là bảo tồn và thu nhập của người dân địa phương trên cơ sở bảo tồn. Du lịch sinh thái luôn gắn bó mật thiết với đời sống kinh tế của người dân địa phương. Vì vậy, nghiên cứu du lịch sinh thái cũng gần tròn nghĩa với nghiên cứu sinh kế địa phương hưởng lợi từ hoạt động này.

Đồng thời, sinh kế cộng đồng phải được nghiên cứu chi tiết theo 5 nguồn lực, bao gồm tự nhiên, xã hội, con người, tài chính, vật chất và cơ sở hạ tầng. Mỗi nguồn lực cần được phân tích kỹ về hiện trạng, tác động, tính đáp ứng… để có thể tìm đươc các giải pháp thích hợp.

 

Bích Nguyên

Nhớ cua đá, thương hải sâm

 

Đọc E-paper

Du khách kêu ca chút đỉnh, nhưng rồi tươi lại khi nghe nói chính cái tiết trời nóng nực quanh năm làm cho hòn đảo này cây cối trù phú, dưới biển có biết bao loài hải sản lạ. Đó là lý do ai nấy kiên nhẫn vượt biển, đội nắng đến đây, nơi không có những bãi cát trắng tinh thượng hạng như Đà Nẵng, Nha Trang hay Phú Quốc.

Cù lao chưa có điện, chưa có khách sạn. Người cù lao dễ thương, chân thật. Họ hồn nhiên hái lá rừng nấu thành món nước giải khát đãi dân thành thị quen dùng cà phê kem tươi Hàn Quốc làm khách thích thú. Nhìn lượng khách khoảng 500 - 1.000 người vào ngày cao điểm, tự nhiên cứ nghĩ liệu có lúc nào những ngọn núi không còn chiếc lá nào?

Câu hỏi không thừa bởi đến nay nơi nào tập trung khách nội địa, nơi ấy có nhiều vấn đề về môi trường. Đảo một vòng ở chợ cù lao chàm, thấy ra dáng chợ du lịch với đồ lưu niệm, vô số hải sản tươi được giới thiệu. Và chỉ vài năm, những mặt hàng cũ đã biến mất, thay vào đó là đặc sản mới.

Chợ cù lao bây giờ những đặc sản nổi tiếng một thời như cua đá, ốc vú nàng, vú sao đã biến mất, chỉ còn trưng bày tiêu bản trong phòng của Bảo tàng "Khu Bảo tồn tài nguyên biển Cù lao Chàm" ngay cạnh cầu cảng. UBND xã đã cấm bắt và bán cua đá trong vòng 5 năm để loài cua núi này hồi phục.

Khi chưa cấm, trẻ em nhốt cua đá trong lồng sắt như nhốt gà, ngồi bán ngay cổng chợ. Những tội đồ mới đã thay thế để chiều lòng cái sự khám phá vô độ của du khách. Hàng loạt hải sản lạ và hiếm như hải sâm, ghẹ, tôm hùm đem ra chờ khách.

Những câu chuyện loanh quanh thau đựng hải sản bán tươi đều luẩn quẩn khoe chuyện ăn ngon, ăn lạ, ăn phục vụ tâm thế thời "sinh lý yếu" của khách bàn tán râm ran cả chuyến đi. Hải sản tươi bán giá vài trăm ngàn đồng mỗi ký, nên ngư dân cứ hùng hục ngày đêm lao ra biển tìm kiếm những thứ kỳ lạ nhất về phục vụ cái sự "tạp ăn" của du khách.

Loanh quanh lắng nghe chuyện mua bán, nhìn ra biển bỗng thấy ngượng ngùng khi nhóm khách nước ngoài mải mê vùng vẫy dưới làn nước biển xanh. Thấy cái sự thích ăn của lạ quá đối chọi với cái thưởng thức thiên nhiên trong một chuyến du lịch.

 

Thấy buồn vì ngay trong ngôn ngữ du lịch, chúng ta cũng thích dùng trạng thái "tận hưởng", nó mạnh mẽ và bạo tàn hơn trạng thái "thưởng thức" mà một người văn minh cần thể hiện khi đi đó đây, không có ai suy nghĩ nên góp phần nhỏ để bảo vệ tính bền vững môi trường và văn hóa của mảnh đất mình đặt chân tới.

 

Cua đá cù lao đã gần như tuyệt diệt chỉ sau mấy năm hòn đảo này đón khách. Những con hải sâm nằm trong thau nước biển thở oxy kia rồi cũng sẽ vào bảo tàng như dĩ vãng oanh liệt của món ốc vú nàng, vú xao.

Trên bãi cát, trong cái nắng gay gắt ngột ngạt khó chịu giữa buổi trưa mùa Hè, người đàn bà ấy bưng một thùng hải sản bán dạo trên cát bỏng. Chị Sáu, người bãi Làng, quá nửa đời làm nông, nay cù lao hút khách du lịch, chị đổi nghề, theo thuyền vào các bãi tắm tìm khách bán chút đặc sản.

Chị nhìn đăm đăm như bị hút vào mặt nước xanh thẫm rong rêu, thì thầm kể về cái chết của những người đi bắt tôm hùm ngoài Hòn Dài. Họ chết thảm lắm, lúc lặn xuống còn khỏe mạnh, bắp thịt ngư dân nổi vồng, khi nổi lên, cả người đỏ ửng rồi rũ mềm ra là đi luôn, không ngoảnh lại nhìn vợ con được lấy một lần. Giá như các du khách đều được nghe câu chuyện ấy.

Rồi bỗng nhớ đến cuộc thi Chiếc thìa vàng 2014 sắp hoàn tất, một mục tiêu của cuộc thi là công bố bản đồ ẩm thực đặc trưng Việt Nam, hỗ trợ cho du lịch ẩm thực phát triển.

Điều cảm thấy yên lòng trong hành trình cuộc thi, do Công ty Gốm sứ Minh Long I và Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức, là không hề có những thứ đặc sản kiểu hàng độc trên rừng dưới biển, mà chỉ trông cậy vào bàn tay vàng của các đầu bếp.

Cứ nghĩ giá như cuộc thi không chỉ giữ riêng cho mình cái tinh thần đẹp đó, mà nên tuyên truyền mạnh mẽ để người Việt mình thấu hiểu và có thái độ văn minh hơn trong khám phá ẩm thực.

Người Cù lao Chàm đang học làm du lịch xanh, không bán san hô phơi khô, không sử dụng bao nylon theo khuyến cáo của các tổ chức môi trường. Nhưng chừng đó chưa đủ. Khách đến Cù lao Chàm nên được tham dự tour tạo dựng tinh thần hành xử văn minh, để khách không tạo sức ép nhu cầu ăn lạ lên những ngư dân thật thà giữa biển khơi.

> Người ta chê người mình
> Những "ông chủ nghèo" của di sản
> Vỉa hè Hà Nội, Sài Gòn
> Món ngon quá khứ

KHẢI LY

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

“Điểm danh” những nẻo ăn chơi đất Đà thành | Xã hội | Báo Dân Việt

Nếu đem so sánh với nhiều thành phố lớn khác trên cả nước thì Đà Nẵng là đô thị không mấy tai tiếng về nạn chơi bời, ma túy, mại dâm... Nói thế, không có nghĩa là ở Đà Nẵng các loại hình tệ nạn này đã được xóa trắng. Nó vẫn có, vẫn âm ỉ tồn tại, nhưng không nhóm họp thành những "tụ điểm lớn" làm chướng tai gai mắt bàn dân thiên hạ, và tất nhiên hoạt động của các loại hình tệ nạn này ở Đà Nẵng cũng được tổ chức theo các chiêu thức dè dặt hơn, kín đáo hơn so với nhiều nơi khác... Để có tư liệu cho bài viết này, tôi đã có nhiều đêm lang thang qua từng góc phố, lặng lẽ quan sát, lặng lẽ chứng kiến những cuộc ngã giá bán mua...

 

Đêm đêm, dưới ánh đèn đường, trên một vài con phố ở Đà Nẵng, vẫn có những "bóng hồng bé nhỏ", đứng thu mình bên cột điện hay những gốc cây với vẻ mặt dáo dác, săn tìm khách.

 

Điểm đầu tiên tôi chọn để đến là đoạn đường đầu cầu Nguyễn Văn Trỗi và cầu Trần Thị Lý. Ở đây, hàng đêm có đến hơn chục chị em chực chờ đợi khách. Chưa kịp tấp xe vào lề đường, ngay lập tức, một cô nàng từ sau... Cột điện bước ra, vẻ mặt hồ hởi... "Anh ơi! Dzô đây nè...".

 

Sau màn “tiếp thị với các “barem” giá cả là màn giới thiệu... Bãi đáp. Nào là, các quán cà phê đèn mờ ở những ngóc ngách thành phố, những khu nhà đang được xây dựng dở dang, bãi biển, rồi những khu nhà trọ rẻ tiền... Ngay lúc đó, có mấy chàng thanh niên đã nhậu xỉn, loạng choạng tấp xe vào quát mắng inh ỏi... Để tìm một gái bán hoa tên L nào đó vì đã móc túi của một người trong đám bạn của họ khi đang 'mây mưa" ở một nhà trọ trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn

 

Bỏ lại phía sau "một khoảng trời son phấn", tôi lại dông xe về phía đường Nguyễn Văn Linh (đoạn ngay trước Bưu điện) nơi đêm đêm vẫn thường có 5 - 6 bóng hồng chọn làm đất kiếm ăn. Nơi đây từ lâu đã được ví như một chợ tình lộ thiên. Chỉ cần khi màn đêm buông xuống, mặc kệ dòng người vẫn tất tả ngược xuôi, học sinh tan trường sau những giờ học ban đêm, phía bên kia đường các cửa hiệu đèn vẫn đang bật sáng... Thì cũng là lúc gái ăn sương mặt mày son phấn, kẻ đứng, người ngồi, cười nói ngả ngớn trên vỉa hè mời gọi khách mua vui.

 

Giả dạng một gã nhà quê ra thành phố kiếm sống bằng nghề xe ôm, tôi đã có một đêm tận mục sở thị những cảnh bán mua phẩm giá buồn thương đến tê lòng.

 

22 giờ, tôi rời góc phố trên đường Nguyễn Văn Linh sang đoạn đường Điện Biên Phủ (đoạn trước bến xe cũ); đường Nguyễn Hữu Thọ (đoạn gần với đường 30-4); đầu cầu Tuyên Sơn; trên đường Nguyễn Lương Bằng hay khu vực ngã ba Huế... Đêm về khuya, những con đường dần thưa vắng người. Chỉ còn le lói bên đường mấy cái bóng đèn bán hột vịt lộn, và đó cũng là nơi dừng chân lót dạ của những cô gái làng chơi.

 

Ở Đà Nẵng, các cô gái chân dài làm nghề bán thân nuôi miệng thường thuê nhà trọ ở các khu dân cư. Có cô thuê nhà ở một mình để che đậy hành tung của mình, nhưng cũng có nhiều cô tụ tập lại thuê nhà ở chung. Cứ thế, người vào nghề trước giới thiệu cho người vào nghề sau những địa chỉ… để làm ăn.

 

Qua nhiều cách tiếp thị, số điện thoại cầm tay của các cô nhanh chóng được các chủ quán karaoke, nhân viên lễ tân và chủ các khách sạn lưu vào bộ nhớ. Mỗi khi  khách có nhu cầu… là ngay lập tức các cô được điều đến để phục vụ từ A tới Z. Có nơi thì khách mua dâm tại chỗ, nhưng đa số là sau khi nhậu, sau khi hát, mỗi khách tự chọn cho mình một em vừa ý rồi hẹn hò đến nhà nghỉ hay khách sạn nào đó để mây mưa…

 

Đ - người đã cùng tôi rong ruổi suốt hành trình đến những điểm ăn chơi ở Đà Nẵng để "mục sở thị" là một tay khá sành sỏi. Đ bảo: Đà Nẵng bây giờ nhiều gái gọi lắm, loại nào cũng có cả, giá cả cho một lần phục vụ từ A tới Z là từ 200 nghìn cho đến cả triệu, tùy vào cung cách phục vụ và nhan sắc của các em...

 

Một khi có nhu cầu tìm em út tâm sự, giải sầu, nếu không có số điện thoại thì cứ vào các quán karaoke, nhà nghỉ, khách sạn... Đánh tiếng là được phục vụ ngay... Rồi cứ thế, số điện thoại được chuyển từ người này đến người khác.

 

Đà Nẵng bây giờ còn có một mô hình mại dâm trá hình ăn theo các dịch vụ xông hơi, massage. Cứ khách sạn mọc đến đâu là dịch massage chạy theo đến đó. Đối với những dịch vụ này, thoạt trông thì có vẻ nghiêm túc lắm, những bảng hiệu ghi rất rõ nội quy của luật pháp, những điều nghiêm cấm đối với tiếp viên, những cảnh báo về căn bệnh HIV/AIDS, cảnh báo về các chất ma túy... Thế nhưng, có đặt chân vào chốn ăn chơi này mới thấy hết được những gì đang diễn ra trong đó.

 

Khách sạn X là một  khách sạn lớn nằm trên địa bàn quận Liên Chiểu. Ở đây có dịch vụ massage đang rất ăn nên làm ra. Cũng giống nhiều điểm massage khác, các phòng được bố trí liền kề nhau, giường được trải drap trắng, một khoảnh nhỏ phía sau dùng cho khách tắm và xông hơi (nhưng trên thực tế hệ thống xông hơi đã tê liệt-NV).

 

Cũng ở trên địa bàn quận Liên Chiểu, còn có một tụ điểm massage thu hút khá đông khách là X.K.H.N. Quả không sai với lời đồn đại của dân sành chơi chốn Đà thành mặc dù mang tên là điểm massage thư giãn nhưng thực chất những gì chúng tôi nhìn thấy tại X.K thì rõ ràng đây là một tụ điểm mại dâm trá hình. Những nhân viên phục vụ ở đây đa số là người từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ, hầu hết họ chẳng biết gì về kỹ thuật massage mà ở đó họ chỉ chú tâm vào chuyện chào mời khách mua dâm với giá từ 200-300 nghìn đồng mỗi lượt.

 

Ngoài các địa chỉ cho giới mày râu thích "hái hoa bắt bướm" ở Liên Chiểu thì các ông anh còn rỉ tai nhau ở sơn trà không thể không ghé M.K; ở Hải Châu thì H.V, V.N.P, T.B, D.E.C... Chỗ nào cũng có dịch vụ khép kín phục vụ cho dân ăn chơi cả, có điều tùy theo giá cả, tùy theo mức độ sang trọng hay bình dân của các dịch vụ này...

 

Làm sao để hạn chế, để dẹp bỏ những điểm ăn chơi trá hình đang tồn tại trong lòng đô thị? Câu trả lời chắc chắn phải dành cho chính quyền địa phương và công an sở tại nơi những điểm massage này đang đăng ký kinh doanh...   

 

Với tầm vóc của một đô thị công nghiệp và là vùng kinh tế trọng điểm của khu vực miền Trung, vài năm qua, cùng với sự phát triển không ngừng của các khu công nghiệp, khu chế xuất và sự ồ ạt có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài... Những dịch vụ ăn chơi cũng theo đà phát triển ấy mọc lên như nấm sau mưa, theo thời gian, Đà Nẵng ngày càng có thêm nhiều quán bar, vũ trường... Đó là những nơi giới thượng lưu đến để “ném tiền qua cửa sổ". Là nơi những cậu ấm, cô chiêu chọn làm nơi "đập phá" bằng những đồng tiền không "đổ mồ hôi sôi nước mắt"...

 

Từ lâu lắm, có lẽ giới trẻ ở Đà Nẵng quên bẵng đi thói quen đến với những đêm ca nhạc nơi công cộng, những quán cà phê nhạc sống… Họ tìm đến với những quán bar, vũ trường để thể hiện sự nhiều tiền và cũng muốn chứng minh với bạn bè  đã là dân sành điệu thì phải ngập mình trong khói thuốc, rượu mạnh và những bước nhảy cuồng loạn... Những cái tên như No 1, New Phương Đông, Festival, Camel, Vegas... Đã không còn quá xa lạ với những tay chơi lắm tiền nhiều của, với những cậu ấm, cô chiêu quanh năm chỉ biết hưởng thụ.

 

Thời gian qua, nhiều chuyên án ma túy lớn, nhỏ đã được cơ quan công an các cấp thiết lập, hàng chục đối tượng chuyên tụ tập tại các vũ trường để bán ma túy tổng hợp như: Trương Khánh Quang (SN 1984), trú P.Bình Hiên;  Hoàng Thị Huyên (SN 1984), trú P.Phước Ninh; Nguyễn Văn Thế (SN 1972), trú P.Thọ Quang; Nguyễn Thị Lộc Thọ, Bùi Quốc Hoàng (SN1980), trú P.Hòa Cường Bắc; Kiên Mộng Lệ Thanh (SN 1978), trú TP.Bạc Liêu và Bùi Công Long - “Long chúa” (SN 1971), trú P.Bình Hiên... Đã bị bắt.

 

Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều những đối tượng khác đang chui nhủi ở ngoài vòng pháp luật, chúng vẫn đêm ngày gieo rắc sự đớn đau cho biết bao gia đình, biết bao số phận vì những món lợi quá lớn từ ma túy...

 

Hơn 23 giờ, chúng tôi bước vào một vũ trường trên đường Đống Đa. Tận mắt chứng kiến hàng trăm con người đang ngập chìm trong khói thuốc, trong tiếng nhạc ầm ào phát ra từ hệ thống âm thanh quá cỡ... Kẻ đứng, người ngồi, kẻ uốn éo, giậm giật theo điệu nhạc. Đèn nhấp nháy, nhạc giật liên hồi, những thân hình cứ thế lắc lư, những cô gái phục vụ bàn vận trang phục thiếu vài nhún nhảy rất đỗi hồn nhiên.

 

Đưa mắt một lượt, chúng tôi thấy  khách ở đây rất trẻ, thế nhưng cách thức "đập phá" của họ thì chẳng khác gì dân chơi thứ thiệt. Họ uống bia, quăng lon; uống rượu mạnh và nhả khói thuốc mịt mù. Có bàn, dăm bảy cô cậu choai choai ngồi uống rượu ngã ngớn, đứa này quàng vai bá cổ đứa kia, thỉnh thoảng lại ré lên khi có vũ công xuất hiện trong bộ xiêm y như không mặc gì.

 

Ở một vũ trường khác nằm trong khu vực Đảo xanh, chúng tôi cũng bắt gặp những hình ảnh không khác mấy các vũ trường khác. Cũng những cô cậu choai choai, con cái của những gia đình làm ăn lớn hoặc cha mẹ có chút chức sắc trong xã hội, nhà dư của ăn của để nhưng có lẽ lại hao khuyết tình yêu thương. Có đám cũng ăn vận áo phông nhiều chữ, quần Jean... Cố gắng ngồi ngả ngớn ra dáng sành điệu nhưng vẫn không giấu hết được sự vụng về của dân lao động. Trong ánh sáng mờ ảo, chớp nháy và tiếng nhạc tưng bừng, những cô gái phục vụ bàn vẫn hồn nhiên bật nắp bia bôm bốp. Chứng kiến những hình ảnh ấy, một đồng nghiệp đứng bên cạnh tôi than thở: "Một bàn bình thường, một đêm chúng nó cũng "làm" hết vài tấn lúa chứ chơi".

 

Một người quen khác của tôi cũng là dân thường xuyên lui tới các quán bar và vũ trường lại bảo rằng: Những đối tượng đến đây đa phần là những người tiêu  tiền mà không "đổ mồ hôi". Thế nhưng, bên trong của những chốn ấy còn tiềm ẩn biết bao điều đáng kinh sợ khác. Các em cave trẻ trung từ nhiều miền quê phiêu dạt đến thành phố này, hầu hết đều chọn vũ trường để khách mua dâm, hoặc là cùng uống, cùng nhảy với khách để kiếm tiền boa. Đó cũng là nơi để những băng nhóm giang hồ gặp gỡ, phân chia lãnh địa, ngôi thứ, giải hòa hay thậm chí là thanh toán nhau.

 

Đặc biệt, cái môi trường mờ ảo này rất thuận lợi để cho các "con chiên" của ma túy hoạt động... Một nhân viên làm ở vũ trường nhiều năm cho biết, đa số các cô cậu choai choai vào đây đều có dính dáng đến thuốc lắc, ma túy…

 

Nhiều người dân ở chốn Đà thành này vẫn chưa thể quên chuyện hai băng nhóm giang hồ thanh toán nhau ngay trước cửa vũ trường New Phương Đông mà kết quả là một thanh niên phải bỏ mạng. Vụ băng nhóm của Lợi "điên", Hùng "chó" gây hấn với băng của Ty "già" ở vũ trường No 1, dẫn đến vụ thanh toán đẫm máu trên đường Nguyễn Văn Thoại làm Ty "già" chết tại chỗ, một đệ tử của Ty "già" bị thương tật đến 76%... Vụ những học sinh của Trường THPT Trần Phú bị một băng nhóm khác đánh trọng thương tại quán bar Speed trên đường Lê Duẩn và hàng chục con nghiện khi bị bắt quả tang sử dụng trái phép các chất ma túy đều khai nhận đêm đêm vẫn kiếm sống bằng nghề vũ nữ ở các vũ trường.

 

Đà thành - mấy nẻo ăn chơi chỉ là những nét chấm phá nhỏ về thực tế những gì đang tồn tại trong lòng một đô thị. Mong sao, những nỗ lực hết mình từ phía các ban, ngành hữu trách sẽ mang lại những tín hiệu tốt lành trong việc ngăn ngừa và hạn chế sự tồn tại của những loại hình tệ nạn này…

Du lịch đại trà hay du lịch tàn phá thiên nhiên?

Anh Chiris.

Theo đó, toàn tuyến cáp treo dự kiến có bốn đoạn, dài tổng cộng 10,6km, xuất phát từ trước cửa động Tiên Sơn. Tổng vốn đầu tư cho tuyến cáp treo này vào khoảng 4.500 tỉ đồng. Ngay sau khi ông Trương An Ninh, chánh văn phòng kiêm người phát ngôn của UBND tỉnh Quảng Bình xác nhận trước báo chí rằng tỉnh Quảng Bình đã cho phép tập đoàn Sun Group khảo sát để xây dựng tuyến cáp treo đưa du khách tham quan hang động Sơn Đoòng thì trên các diễn đàn mạng trong nước và nước ngoài có một cuộc vận động chữ ký mạnh mẽ. Mục đích "Hãy cứu lấy Sơn Đoòng!" và thúc giục chính phủ Việt Nam ra tay hành động kịp thời để chấm dứt dự án tư nhân khai thác và đầu tư hệ thống cáp treo đang làm xôn xao dư luận này. Đồng thời, "kêu gọi công dân trái đất hãy giúp đỡ thực thi "Luật về Quyền của Thiên Nhiên" đối với hang Sơn Đoòng. Theo những người này, đây là một dự án ám sát môi trường và gây ra tác hại không thể lường hết được cho hang Sơn Đoòng và hệ sinh thái của toàn khu vực Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng.

Không phải tự nhiên, dư luận lại "dậy sóng" trước thông tin này. Câu chuyện nhãn tiền ở Bà Nà và Fansipan là một minh chứng rõ ràng nhất cho việc xáo trộn Mẹ Tự Nhiên. Bao nhiêu tiếng nói vào cuộc, bao nhiêu ý kiến được đưa ra mổ xẻ. "Phải cẩn trọng với di sản", "Thảm họa"… là những điều mà người ta vẫn nói. Nhưng "nói không" mà "làm có", thậm chí đi một đường tắt, bỏ qua ý kiến cộng đồng.

 

Những hình ảnh hang Sơn Đoòng do anh Chiris ghi lại trong chuyến thám hiểm của mình.

 

Và như có người nói, hình như Việt Nam đang có hội chứng "cáp treo"? Hết cáp treo lên núi giờ quay sang cáp treo động. Cứ phải "cáp cáp", "treo treo" thì mới thỏa lòng di sản chăng? Nói như thế, để ta thấy rằng Việt Nam đang đi ngược lại quy luật, đang làm những chuyện "chẳng giống ai"!

Và cái sự "chẳng giống ai" ấy, lần này, lại ứng xử với Sơn Đoòng - hang lớn nhất, hoành tráng và lộng lẫy nhất thế giới, làm sửng sốt và kinh ngạc cả những chuyên gia hang động dày dạn kinh nghiệm của nhân loại, là thương hiệu hàng đầu của du lịch Việt Nam. Hang rộng 100 - 200m, cao 150 - 250m, dài 6km5; vừa soán ngôi kỷ lục thế giới của hang Deer trong vườn quốc gia Gunnung Mulu , Malaysia .

Đành rằng việc khảo sát tiềm năng du lịch là việc nên làm đối với các nhà chức trách. Đành rằng, khi có cáp treo, thì lượng du khách đến đây sẽ tăng lên không ngừng, không bị hạn chế lượng người tham quan, nhiều người sẽ có cơ hội "mãn nhãn" với một trong những kiệt tác của tự nhiên; đi cùng với đó là sự thay đổi diện mạo, đời sống và thu nhập cho người dân tại khu vực này. Nhưng thiết nghĩ, nếu chỉ vì thế mà có những tác động không đáng có đối với Sơn Đoòng thì cũng nên xem lại.

 

 

 

Nhìn sang một quốc gia Đông Nam Á khác, Malaysia chỉ có 3 di sản thế giới, trong khi Việt nam có tới 17 nhưng lượng khách của Malaysia gần gấp năm lần, lợi nhuận từ du lịch gấp sáu lần Việt Nam . Trong đó, ngọn núi cao nhất Đông Nam Á và là biểu tượng của Malaysia là Kinabalu, dù rất nổi tiếng, mỗi ngày Malaysia cũng chỉ cho phép 120 người leo lên, vì thế để đi lên cần đăng ký trước tới 5 - 7 tháng. Việc làm này không gây khó chịu cho du khách mà trái lại, còn làm tăng giá trị của ngọn Kinabalu.

Nói vậy, để ta thấy rằng bên cạnh những mô hình du lịch đại trà, nhà nhà du lịch, người người du lịch, cũng nên có những khu du lịch "đặc tuyển", chỉ dành cho một số người thực sự có "đam mê" với nó. Du lịch không đơn thuần là câu chuyện "xã hội hóa". Du lịch còn là câu chuyện của khám phá, của cảm giác chinh phục, của cảm giác đơn độc, nhỏ bé và rợn ngợp trước những kiến tạo kỳ vĩ, thậm chí vượt xa trí tưởng tưởng của con người mà Mẹ Tự Nhiên đã ban tặng.

Chris Miller, New Zealand, 41 tuổi, 1 trong 220 khách du lịch đến tham quan hang Sơn Đoòng trong năm qua, khi được hỏi về dự án xây cáp treo vào hang Sơn Đoòng thì anh cho rằng đây là một ý tưởng tồi! Anh nói: "Tôi đã đến thăm Sơn Đoòng vào tháng 4 năm nay, đó thực sự là một nơi tuyệt vời, rất đẹp và ấn tượng. Và tôi nghĩ việc xây cáp treo là ý tưởng tồi vì lối vào Sơn Đoòng nằm sâu trong rừng, việc xây dựng cáp treo sẽ gặp rất nhiều khó khăn với những đồi dốc và nền đất mềm, việc xây dựng sẽ hủy hoại môi trường rất lớn. Tôi cũng đã đến thăm vài nơi, thực sự chúng rất đẹp nhưng tôi khá là thất vọng vì chúng đã được thương mại hóa và mất đi vẻ tự nhiên của phong cảnh thiên nhiên. Sơn Đoòng còn đẹp và đặc biệt hơn các hang động khác ở Phong Nha, có thể nói là hang động đẹp nhất thế giới. Cáp treo hoạt động sẽ mang một số lượng lớn du khách đến tham quan, làm mất đi cảm giác "đơn độc" trước thiên nhiên hùng vĩ. Chris cũng cho rằng, giữ cho Sơn Đoòng được độc quyền và hạn chế du khách sẽ làm tăng sự hấp dẫn và bí ẩn, tăng giá trị của hang lên nhiều. Một khi trở thành điểm du lịch đại trà, Sơn Đoòng sẽ mãi mãi bị cho ra khỏi danh sách cần phải đến tham quan của du khách. Và nữa, dường như dự án cáp treo đã không có giai đoạn lấy ý kiến cộng đồng, Tất cả những người tôi hỏi (hướng dẫn viên thăm hang động, người dân địa phương, các người bạn Việt Nam và những người yêu thích khám phá thiên nhiên) không ai nói đây là một ý tưởng hay ho. Tôi hiểu rằng: chính phủ muốn nhiều du khách đến tham quan và thu được nhiều tiền hơn từ đây, thay vì chỉ một nhóm nhỏ may mắn được đến để ngắm hang động tuyệt vời như vậy. Tuy nhiên, nếu Sơn Đoòng có cáp treo, nó sẽ không bao giờ được như cũ, có thể sẽ thu được nhiều tiền hơn trong ngắn hạn, nhưng những thiệt hại không thể khắc phục như hang động bị hủy hoại dẫn đến mất hấp dẫn, về dài hạn sẽ không bằng trước đó".

 

Ông Phan Đình Tân, Chánh Văn phòng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch: Phát triển thế nào để rồi vẫn phải bảo tồn, bảo vệ được di sản!

Hiện tại Bộ chưa nhận được văn bản của tỉnh Quảng Bình về vụ việc này. Đánh giá về vấn đề này thì phải xem xét lại nếu như trong vùng di sản thì tuyệt đối phải có ý kiến xin phép và được phép của Thủ tướng, thậm chí là ý kiến của UNESCO. Chúng tôi cũng ủng hộ quan điểm phải bảo tồn và phát triển nhưng phải phát triển thế nào để rồi vẫn phải bảo tồn, bảo vệ được di sản, không phải phát triển bằng mọi giá. Còn doanh nghiệp người ta có ý định xây dựng để phát triển kinh tế thì rất là hoan nghênh nhưng cơ quan Nhà nước cần có định hướng cho đúng đắn, chính xác.

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

Trải nghiệm du lịch rất... con gái - Thế Giới Văn Hóa Online

VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH
Người ta bảo, con gái đừng nên du lịch một mình và cũng hạn chế đi cùng nhóm bạn nữ. Bởi theo họ, chỉ có bạn đồng hành là nam giới mới có thể đỡ đần bạn khi gặp sự cố trên đường tour, giúp bạn cảm thấy bớt lẻ loi khi đến một vùng đất lạ. Thực tế, nếu đi nhiều, bạn sẽ thấy suy nghĩ này sai bét. Ranh giới về giới tính chẳng là gì cả một khi bạn đã xách ba lô lên và đi, không bận tâm liệu mình có đi khỏe hơn, chơi vui hơn nếu là con trai.

trai nghiem du lich cach con gai-05

Vài tháng trước, tôi đã cùng nhóm bạn nữ chinh phục Fansipan (tỉnh Lào Cai). Trong chuyến leo núi đó, tôi và các bạn đã phải nỗ lực hết sức để không bỏ cuộc giữa chừng. Chúng tôi chinh phục Fansipan không phải để chứng tỏ mình mạnh mẽ hơn con trai, mà để trải qua cảm giác: sợ hãi khi ngủ trong lều giữa cái lạnh căm căm, choáng ngợp khi chạm tay vào cột mốc 3.143m, thấy đôi chân như không còn là của mình khi xuống núi…

TINH THẦN ĐỘC LẬP
5 năm trước, khi nhận được tháng lương đầu tiên, tôi nói với ba mẹ rằng mình sắp tự đi du lịch ở Phuket (Thái Lan) một mình. Họ đã lo ngại và đề nghị tôi thay đổi ý định vì sợ tôi không biết dựa vào ai khi gặp bất trắc. Tôi đã trấn an ba mẹ rằng mình đã tìm hiểu thật kỹ về an ninh tại Phuket, nắm giá phòng khách sạn và biết cách đặt dịch vụ đi chơi quanh các đảo.

trai nghiem du lich cach con gai-06

Dù không biết tiếng Thái nhưng tôi tin rằng vốn tiếng Anh của mình đủ để người bản xứ hiểu mình muốn gì. Chuyến đi đó, dù gặp trục trặc do chuyến bay bị trễ giờ, bị tào tháo rượt khi ăn món canh cá lạ miệng nhưng tôi vẫn vui vì mình đi đến nơi về đến chốn.

MÌNH LÀM ĐẸP TRƯỚC HẾT LÀ CHO CHÍNH MÌNH

trai nghiem du lich cach con gai-03
Bình thường, trong lúc đi làm mỗi ngày, tôi thường băn khoăn tự hỏi mình đang make-up cho ai, bận tâm chàng trai nào trong công ty sẽ để ý thấy mình làm tóc đẹp, kẻ mắt quyến rũ và mặc váy xinh xắn hơn mọi ngày. Đến lúc đang say sưa tập lặn biển ở Nha Trang hay trekking xuyên rừng Nam Cát Tiên, tôi mới nhận ra mình làm đẹp trước hết cho chính mình. Tôi tin là mình đẹp và thu hút hơn khi tự tin, quyết định mình muốn xem gì, ăn món nào, khám phá những đâu mà không phải hỏi ý bạn trai muốn như thế nào.

MỞ MANG TẦM MẮT
Đa số bạn nữ cùng độ tuổi của tôi bây giờ đã có chồng con trong lúc tôi vẫn đi về một mình, mỗi năm tự thưởng cho mình vài ba chuyến du hành. Thỉnh thoảng, khi thấy ảnh du lịch đó đây mà tôi post trên Facebook, họ lại comment thèm thuồng cảm giác khi còn độc thân, muốn đi đâu thì đi.

trai nghiem du lich cach con gai-04

Mỗi năm, tôi đều lên kế hoạch dành khoảng một nửa thu nhập cho các chuyến đi để có những trải nghiệm mới mẻ. Năm ngoái, tôi đã đến Hà Tiên để trải nghiệm cảm giác ăn vặt bên bờ sông Tô Châu. Năm nay, tôi đặt mục tiêu tới Hồng Kông (Trung Quốc) để khám phá khu chợ Đàn Ông, Đàn Bà, lang thang phố Mongkok…

TỰ CHỮA LÀNH VẾT THƯƠNG TÌNH CẢM
Sau một lần chia tay bạn trai cách đây 3 năm, để tránh rơi vào tình trạng suy sụp, tôi đã thẳng tiến ra cù lao chàm (Đà Nẵng) để trốn khỏi không gian thành phố quen thuộc.

trai nghiem du lich cach con gai-01

Trong chuyến đi, tôi không còn thời gian gặm nhấm vết thương lòng vì thấy mình gần như cách ly với đời sống phố thị vì sóng điện thoại chập chờn lúc được lúc mất. Nhờ vậy mà tôi thảnh thơi ăn ốc nón, ốc gai, sò huyết, vẫy vùng trong làn nước trong xanh tại Bãi Ông, đạp xe đi viếng chùa Hải Tạng, miếu Bà… Chuyến đi giúp tôi nhận ra việc mất người yêu không có nghĩa là mất tất cả.

LUKE BÙI

 

 

Dán nhãn bảo vệ cua đá Cù Lao Chàm - Xã hội - Dân trí

Ông Nguyễn Văn Vũ  - Trưởng ban Quản lý Khu bảo tồn biển cù lao chàm, cho biết: “Tổ Cộng đồng đã thực hiện khai thác và dán nhãn sinh thái cho 9.486 con cua đá, trong đó có 6.390 con đực và 3.096 con cái. Với kích thước trung bình của chiều ngang mai cua là 7,9 cm và không có cua đá mang trứng bị khai thác.

 

Cua đá được dán nhãn. Ảnh do Ban quản lý bảo tồn biển Cù Lao Chàm cung cấp.

Cua đá được dán nhãn. Ảnh do Ban quản lý bảo tồn biển Cù Lao Chàm cung cấp.

 

Ngoài ra, đối với cua đá kích thước chiều ngang mai nhỏ hơn 7 cm, tổng cộng có 30 con, Tổ Cộng đồng đã thu hồi và phóng thích về với đảo Cù Lao Chàm. Đồng thời, toàn bộ cua đá khai thác đúng quy định sẽ được dán nhãn sinh thái trước khi bán cho khách hàng, giá bán tối thiểu quy định là 500 nghìn đồng/kg”

 

Ông Vũ cho biết thêm, còn về việc khai thác cua đá trái phép, theo đó, trên thực tế cua đá vẫn bị bắt, khai thác, vận chuyển và buôn bán trái phép tại Cù Lao Chàm, nhất là trong mùa du lịch từ tháng 3 đến tháng 9 hàng năm. Mặc dù, chính quyền địa phương đã và đang có nhiều hoạt động giám sát, ngăn chặn, xử lý, nhưng cua đá vẫn bị khai thác lén lút và kết quả là khó có thể kiểm soát và dự báo được sự phục hồi của cua đá tại Cù Lao Chàm

 

Theo An Khang
 Công an nhân dân

Xem thêm :bảo vệ, du lịch, kết quả, công an, kích thước, khách hàng, quy định, trái phép, hoạt động, quản lý,

Tạo sinh kế tích cực cho người dân sinh sống tại Cù Lao Chàm | Vietnam+ (VietnamPlus)

Quang cảnh xã Tân Hiệp trên đảo cù lao chàm. (Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN)


Nằm cuối dòng sông Thu Bồn, thành phố hội an được thừa hưởng sự đa dạng các hệ sinh thái vùng cửa sông và ven bờ.

Các bãi sậy, cồn cát, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô, quần cư rong biển, rừng tự nhiên Cù Lao Chàm, cũng như cảnh quan trên cạn và dưới nước đã và đang mang lại cho Hội An-Cù Lao Chàm một sự giàu có các dịch vụ sinh thái, tạo tiền đề phát triển kinh tế-xã hội địa phương, nhất là hình thức du lịch sinh thái.

Điểm nhấn của sự phát triển du lịch

Với công cụ là Khu bảo tồn biển được thành lập vào tháng 12/2005 và sau đó là Khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận vào tháng 5/2009, hoạt động du lịch sinh thái tại Cù Lao Chàm và Hội An đã phát triển ngày một mạnh mẽ.

Số du khách đến với Cù Lao Chàm năm 2004 là vài ngàn người, năm 2009 là hơn 40.000, năm 2012 là 106.000 và năm 2013 lên đến hơn 195.000 người, là minh chứng về sự hấp dẫn của vùng biển đảo ngập tràn nắng gió này.

Giám đốc Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm Chu Mạnh Trinh cho biết du lịch sinh thái phát triển đã và đang tạo cơ hội cho người dân cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Đến năm 2013 đã có trên 485 người dân địa phương trong tổng số 560 hộ gia đình tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch sinh thái, với hơn 12 loại hình sinh kế mới.

Thu nhập được nâng cao, chất lượng cuộc sống được cải thiện là động lực cho người dân tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường và tài nguyên vùng đảo.

Không chỉ mang lại lợi ích cho người dân địa phương, Cù Lao Chàm với sự phát triển du lịch sinh thái đã và đang là điểm nhấn làm giàu thành phố Hội An và các cộng đồng trong vùng bờ.

Tuy chỉ có 10% tổng số du khách từ Hội An đến với Cù Lao Chàm hàng năm (Hội An đón nhận 1,5 triệu du khách, trong khi đó Cù Lao Chàm tiếp đón 150.000 người), nhưng lợi ích mang lại cho dịch vụ du lịch trong đất liền là rất lớn.

Thông thường du khách đến thăm Cù Lao Chàm đều tăng thời gian lưu trú tại Hội An lên ít nhất 2 ngày. Hiện nay đã có 32 công ty vận tải khách du lịch từ Hội An ra Cù Lao Chàm với hơn 120 tàu, thuyền và canô cao tốc phục vụ, đạt tổng danh thu khoảng 100 tỷ đồng một năm.

Đến năm 2013, du lịch sinh thái Cù Lao Chàm đã nâng lên một tầm mới. Nơi đây thực sự trở thành sản phẩm mục tiêu trong phát triển du lịch của Hội An và Quảng Nam. Tại điểm cuối của vùng hạ lưu, một dòng vật chất được chuyển vào đất liền hoặc phục vụ du lịch trên đảo bao gồm các sản phẩm thủy sản, cua Đá, lá rừng, võng ngô đồng, cảnh quan môi trường, đời sống cộng đồng...

Một dòng tri thức và văn hóa được nghiên cứu chuyển giao, đó là mô hình bảo tồn biển, danh hiệu khu dự trữ sinh quyển, mô hình cua Đá, nói không với túi ni lông, phân loại rác tại nguồn, lưu trú nhà dân.

Du lịch sinh thái cần đảm bảo được hai yếu tố cơ bản là bảo tồn và thu nhập của ng ười dân địa phương trên cơ sở bảo tồn.

Du lịch sinh thái là loại hình du lịch tìm hiểu. Do vậy, Cù Lao Chàm-Hội An phải đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch, trong đó ngoài việc được hưởng những giá trị độc đáo của địa phương mang lại từ thiên nhiên, văn hóa, lịch sử, con người, thì họ còn cần được giáo dục.

Như thế, du lịch sinh thái luôn gắn liền mật thiết với đời sống kinh tế của người dân địa phương. Vì vậy, nghiên cứu du lịch sinh thái cũng gần tròn nghĩa với nghiên cứu sinh kế địa phương hưởng lợi từ hoạt động này. Đồng thời, sinh kế cộng đồng phải được nghiên cứu chi tiết theo 5 nguồn lực bao gồm tự nhiên, xã hội, con ng ười, tài chính, vật chất và cơ sở hạ tầng.

Mỗi nguồn lực lại được phân tích theo mô hình DPSIR (dẫn lực, áp lực, hiện trạng, tác động, và đáp ứng) để có thể tìm được các giải pháp thích hợp. Bên cạnh đó, các nguyên tắc SMART (cụ thể, lượng hóa, thực thi, hợp lý và thời gian), và SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức) cũng cần được áp dụng để sàng lọc và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các chiến lược phát triển du lịch sinh thái tại địa phương .

Nguồn lực tự nhiên được bảo vệ và bảo tồn

Các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển, quần cư rong biển, rừng tự nhiên, bãi cát… là nguồn lực tự nhiên quan trọng hỗ trợ cho sự phát triển du lịch sinh thái Cù Lao Chàm-Hội An. Trong những năm qua, các nguồn lực này đã được tiếp cận với khái niệm bảo tồn biển, hay nói cách khác là tiếp cận quản lý trên cơ sở hệ sinh thái.

Với trên 736 loài thuộc 263 giống của các nhóm sinh vật chủ yếu trong hệ sinh thái rạn san hô và thảm cỏ biển đã được ghi nhận cho thấy khu hệ sinh vật trong vùng nước của Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm khá phong phú và đa dạng.

Cỏ biển có 5 loài thuộc 3 giống, rong biển kích thước lớn có 76 loài thuộc 46 giống, san hô tạo rạn có 277 loài thuộc 40 giống, cá rạn san hô có 270 loài thuộc 105 giống, thân mềm có 97 loài thuộc 61 giống và da gai có 11 loài thuộc 8 giống.

Cua Đá trong năm 2013 đã được cộng đồng quản lý, bảo vệ và khai thác hợp lý với số l ượng gần 7.000 con được bắt và kích thước mai cua đảm bảo với cam kết ban đầu là trên 7cm khi được dán nhãn sinh thái. Đối tượng tài nguyên này bước đầu được bảo vệ và quản lý khai thác một cách khoa học gắn liền với hệ thống giám sát đảm bảo được bền vững trong tương lai.

Tổng sản lượng tôm Hùm được khai thác tại Cù Lao Chàm là khoảng 15 tấn/năm trong đó 70% được bắt bởi người địa phương còn lại 30% bởi người ngoài. Trong 4 loại ốc Vú Nàng, chỉ còn ốc Vú Nàng Con là khoảng 5 tấn/năm, các loại ốc Vú Nàng Vú và ốc Vú Nàng Hang đang trong tình trạng bị tấn công rất mãnh liệt với kích thước khai thác rất bé.

Sản lượng khai thác hải sản trước đây của Cù Lao Chàm khoảng hơn 1.500 tấn mỗi năm, nhưng chỉ còn 800 tấn/năm từ khi có Khu bảo tồn biển và du lịch sinh thái. Hiện tại, ng ười dân tập trung vào khai thác các sản phẩm phục vụ du lịch.

Một số vùng ngư trường được bảo tồn, phần lớn là nơi có hệ sinh thái rạn san hô nhạy cảm. Tuy nhiên, một số đối tượng nguồn lợi đang bị khai thác quá mức, biểu hiện qua số lượng cá thể giảm dần, kích thước cá thể bé dần. Đây là thách thức lớn đối với nguồn lực tự nhiên phục vụ phát triển du lịch sinh thái lâu bền.

Nhu cầu h ưởng dụng tài nguyên thiên nhiên như tiêu thụ nguồn lợi sinh vật biển, sản phẩm rừng ngày càng gia tăng và mãnh liệt theo số lượng du khách đến thăm đảo. Điều này được phản ảnh qua giá bán sản phẩm tại địa phương.

Đồng thời thông qua kết quả tuần tra kiểm soát, cũng như độ phủ rạn san hô, mật độ cá rạn, việc khai thác một số đối tượng tài nguyên như Bào Ngư, điệp Quạt, ốc Vú Nàng, ốc Nón, Sao Biển, trai Tai Tượng, cá Cảnh đang phức tạp tại Cù Lao Chàm.

Cùng với hiện trạng khai thác khó kiểm soát của người ngoài địa phương, thế mạnh về nguồn lợi thủy sản và đa dạng sinh học tại Cù Lao Chàm có khả năng bị suy giảm, nếu không có giải pháp ngăn chặn, sẽ dẫn đến tình trạng nghèo nguồn lực tự nhiên trong tương lai không xa.

Các nguyên nhân gián tiếp liên quan đến suy giảm nguồn lợi là sự phối kết hợp trong quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên chưa đủ mạnh và thuyết phục cộng đồng tham gia bảo vệ.

Các lực lượng chức năng như công an xã, biên phòng, kiểm ngư, dân quân xã và bảo tồn biển cần có sự phối kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ nhau trong công tác tuần tra, kiểm soát, quản lý và bảo vệ.

Năm 2013, Cù Lao Chàm cũng đã ứng dụng công nghệ phục hồi san hô và đã nuôi cấy tại vùng phục hồi 4.800 tập đoàn, tại vườn ươm 750 tập đoàn san hô. Tỷ lệ sống của san hô nuôi cấy tại vườn ươm khoảng 87% và tại vùng phục hồi là 74%.

Số tập đoàn san hô tách từ vườn ươm sang phục hồi là hơn 400 tập đoàn. Đồng thời một số tập đoàn san hô bàn, cành mới cũng đã được ghi nhận tại các ghềnh đá Cù Lao Chàm. Đây là dấu hiệu phục hồi tự nhiên của các loài san hô tạo rạn tại các vùng nước được giữ gìn sạch sẽ./.

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Hội An lọt top 10 nơi có nhiều khách sạn tốt nhất năm 2015


 

 

 

Hội an giành được nhiều điểm cộng nhờ giá phòng hợp lý và gần các danh thắng đẹp. Hiện nơi đây có 229 cơ sở lưu trú đang hoạt động với 5.054 buồng phòng, trong đó có 3 khu du lịch đạt chuẩn 5 sao; 12 khách sạn đạt chuẩn 4 sao cùng 23 biệt thự và 109 homestay.

Những cái nhất của Hội An làm rạng danh du lịch Việt Nam

Hội an là điểm đến được khách nước ngoài đề cập thường xuyên nhất khi tới Việt Nam và nhiều lần đạt vị trí cao trong các bảng xếp hạng du lịch trên thế giới. Dưới đây là những danh hiệu từng được bình chọn cho phố cổ này.

Top 10 điểm đến có khách sạn tốt nhất thế giới

Đầu tháng 11/2014, trang web đặt phòng Agoda công bố kết quả một cuộc nghiên cứu có tên là Travel Smart về những nơi có khách sạn được bình chọn tốt nhất, dựa trên phản hồi của gần 7 triệu khách hàng.

Hội An được xếp hạng và chấm điểm bằng với Gdansk, Ba Lan (vị trí thứ chín). Các khách sạn tại đây được đánh giá cao về tính hợp lý trong giá cả.

Hội An với khu phố cổ sầm uất từ lâu đã trở thành một trong những biểu tượng du lịch của Việt Nam. Ảnh: Cao Anh Tuấn.

Top những điểm đến có con kênh nổi tiếng nhất thế giới

Theo bình chọn của Touropia hồi tháng 9/2014, Hội An đứng thứ tư trong bảng xếp hạng sau Venice, Amsterdam và Bruges về những thành phố có con kênh chảy qua nổi tiếng nhất hành tinh.

Theo miêu tả của Touropia, Hội An là "một làng chài trở thành điểm đến du lịch nằm ở vùng duyên hải Việt Nam, là thương cảng quốc tế từ thế kỷ 16. Trung tâm thành phố là khu phố cổ. Hội An còn được gọi là Venice của Việt Nam, với đặc trưng là dòng kênh nhỏ chia khu phố cổ làm hai".

Top 17 điểm "selfie" đẹp nhất thế giới

Tháng 3/2014, Buzzfeed Travel xếp di sản thế giới nổi tiếng của Việt Nam đứng thứ 3 trong số những điểm đến dành cho du khách thích tự chụp hình. Nổi tiếng và thu hút đông đảo du khách nhất chính là khu phố cổ.

Top 10 thành phố lãng mạn nhất thế giới

Theo Indiatimes, Hội An là một trong 9 thành phố lãng mạn nhất thế giới. Phố cổ này từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây suốt thế kỷ 17 và 18.

Ngày nay, Hội An dần chuyển mình và trở thành một trong những điểm đến thu hút nhiều du khách. Trong mắt khách nước ngoài, nơi đây là sự hòa quyện độc đáo giữa nét duyên dáng, trầm mặc của những tàn dư xưa cũ và yếu tố hiện đại, chuyên nghiệp thời đại mới.

Hội An với vẻ đẹp trầm mặc làm say lòng biết bao du khách trong và ngoài nước. Ảnh: Buzzfeed.

Top điểm đến được yêu nhất châu Á

Cuối năm 2013, độc giả của tạp chí Conde Nast Traveler (Mỹ) xếp thành phố cổ ở miền Trung Việt Nam vào vị trí thứ hai trong danh sách các điểm đến được yêu thích nhất châu Á.

Đây là cuộc khảo sát thường niên của Conde Nast Traveler - vốn được xem là danh giá nhất của ngành công nghiệp du lịch toàn cầu - Hội An đã "nhảy" vọt lên vị trí thứ hai, xếp sau thành phố Kyoto (Nhật Bản), Trong cuộc bình chọn năm 2012, phố cổ này lần đầu tiên góp mặt trong top 10.

Anh Minh

Du lịch sinh thái - sinh kế cho người dân Cù Lao Chàm

Lặn ngắm san hô tại biển cù lao chàm - loại dịch vụ thu hút khách du lịch.

Sự phát triển du lịch sinh thái ở Cù Lao Chàm và hội an đã thực sự mang lại lợi ích cho người dân nơi đây. Tuy chỉ có 10% tổng số du khách từ Hội An đến với Cù Lao Chàm hằng năm (Hội An đón nhận 1,5 triệu du khách), nhưng lợi ích mang lại cho dịch vụ du lịch trong đất liền là rất lớn. Thông thường, du khách đến thăm Cù Lao Chàm đều tăng thời gian lưu trú tại Hội An lên ít nhất 2 ngày.

Hiện nay, đã có 32 công ty vận tải khách du lịch từ Hội An ra Cù Lao Chàm với hơn 120 tàu, thuyền và ca-nô cao tốc phục vụ, đạt tổng doanh thu khoảng 100 tỷ đồng/năm. Làm thế nào để nâng cao thu nhập của người dân đảo khi tham gia hoạt động du lịch sinh thái này là điều rất cần quan tâm.

Bảo tồn trên cơ sở phát triển du lịch

Đến năm 2013, Cù Lao Chàm thực sự trở thành "sản phẩm" mục tiêu trong phát triển du lịch của Hội An và Quảng Nam. Nguồn lực tự nhiên tại Cù Lao Chàm - Hội An đa dạng và phong phú là cơ sở quan trọng cho phát triển du lịch sinh thái. Các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển, quần cư rong biển, rừng tự nhiên, bãi cát... Là nguồn lực tự nhiên quan trọng hỗ trợ cho sự phát triển du lịch sinh thái Cù Lao Chàm - Hội An.

Sản lượng khai thác hải sản trước đây của Cù Lao Chàm khoảng hơn 1.500 tấn mỗi năm, nhưng từ khi có KBTB và du lịch sinh thái chỉ còn 800 tấn/năm. Hiện tại, người dân tập trung vào khai thác các sản phẩm phục vụ du lịch. Một số vùng ngư trường được bảo tồn, phần lớn là nơi có hệ sinh thái rạn san hô nhạy cảm.

Tuy nhiên, một số nơi nguồn lợi đang bị khai thác quá mức, biểu hiện qua số lượng cá thể giảm dần, kích thước cá thể bé dần. Đây là thách thức lớn đối với nguồn lực tự nhiên phục vụ phát triển du lịch sinh thái lâu bền. Bên cạnh đó, rác thải, việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng cũng làm ảnh hưởng đến cảnh quan của Cù Lao Chàm. Nhằm khắc phục tình trạng trên, KBTB Cù Lao Chàm đã đề nghị mở rộng tiếp cận bảo tồn biển vào vùng bờ, hạ lưu sông Thu Bồn, gắn bảo tồn biển với phục hồi rừng ngập mặn, các bãi sậy, đụn cát trong vùng cửa sông. Đồng thời, trong năm 2013, Cù Lao Chàm cũng đã ứng dụng công nghệ phục hồi san hô và đã nuôi cấy tại vùng phục hồi 4.800 tập đoàn, tại vườn ươm 750 tập đoàn san hô.

Một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến sự phát triển du lịch sinh thái của Cù Lao Chàm là nguồn lực con người. Ngay từ những ngày đầu, KBTB Cù Lao Chàm đã tập trung vào công tác nâng cao nhận thức và đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng. Trong thời gian 3 năm, từ 2003 đến 2006, đã có gần 2/3 tổng số dân cư trên đảo tham gia các hoạt động đào tạo và nâng cao nhận thức. Tại thành phố Hội An, có gần 334 lượt người tham dự các hoạt động nâng cao nhận thức về bảo tồn.

Từ năm 2006 đến 2013, nguồn lực con người của cộng đồng Cù Lao Chàm được tiếp tục cải thiện và nâng cao thông qua các chương trình đào tạo và hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn sinh kế tại địa phương. Nếu như trong giai đoạn từ 2003 đến 2006, nguồn lực con người chủ yếu được tập trung vào sự hiểu biết về bảo tồn, lợi ích kinh tế, cũng như kiến thức về quản lý bảo tồn, thì trong giai đoạn 2006 đến 2013, phần lớn đầu tư cụ thể vào học tập, chuyển giao các sinh kế mới và xây dựng các mô hình trình diễn nhằm gắn kết người dân tham gia vào các hoạt động du lịch sinh thái thông qua bảo tồn.

Người dân được hưởng lợi

Vào những năm xây dựng KBTB Cù Lao Chàm, khoảng chừng 67% tổng số hộ dân đã vay vốn từ các chương trình tín chấp tại địa phương, hội đoàn thể, hoặc người thân và bạn bè. Trong thời gian từ năm 2006 đến 2013, người dân được tiếp cận các nguồn vốn từ ngân hàng chính sách, hỗ trợ sinh kế LMPA (sinh kế cộng đồng trong và xung quanh các KBTB) và GEF (Quỹ Môi trường toàn cầu) với lãi suất ưu đãi.

Không chỉ có vậy, năm 2012, Ngân hàng Nông nghiệp đã đặt trạm giao dịch tại đảo, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con ngư dân vay và gửi tiền. Với các nguồn vốn vay, người dân tập trung vào đầu tư các trang thiết bị để khai thác nguồn lợi từ biển như ghe, tàu, lưới đánh cá. Gần đây, hoạt động du lịch được nở rộ tại khu vực đảo, bà con còn tập trung đầu tư mở rộng homestay, nhà hàng, tàu chuyên chở khách du lịch.

Theo số liệu thống kê, trong 10 năm qua, dân số tại Cù Lao Chàm không thay đổi lớn (tổng số dân trên dưới 2.500 người), tuy nhiên, thành phần nghề nghiệp đã thay đổi nhiều, nhất là các sinh kế mới ra đời cùng với sự phát triển của du lịch. Với tốc độ phát triển du lịch như hiện nay vào năm 2012 và 2013, thì trung bình một năm, người dân tiếp đón khách du lịch 10 tháng, mỗi tháng 30 ngày, như vậy, cộng đồng Cù Lao Chàm có thể thu nhập thêm 18.691.000.000 đồng/năm. Cùng với số thu từ nguồn phí tham quan lặn biển, thì Cù Lao Chàm đã vượt mức dự báo theo kế hoạch 2010 - 2015 trước 2 năm.

Bắt đầu từ năm 2008, cộng đồng Cù Lao Chàm được tiếp cận bảo tồn và du lịch sinh thái trên các đối tượng tài nguyên mục tiêu cụ thể, bao gồm: Rạn san hô, thảm cỏ biển, tôm hùm, cua đá, ốc vú nàng và bãi biển. Trong hai năm 2009-2010, cộng đồng ở đây được hướng dẫn tăng cường công tác quản lý các hoạt động du lịch tại địa phương. Người dân đã tham gia phong trào "Nói không với túi ni lông" và hành động này không chỉ dừng lại ở vấn đề môi trường mà nó đã trở thành một sản phẩm du lịch, góp phần nâng cao thu nhập cho cộng đồng Cù Lao Chàm.

Đặc biệt, từ năm 2011 đến nay, các nỗ lực của cộng đồng đã trở thành hiện thực với sự ra đời của Tổ cua đá, Tiểu khu bảo tồn biển Bãi Hương, một lần nữa đã chứng tỏ sự lớn mạnh và khả năng chia sẻ trách nhiệm và lợi ích của từng nhóm cộng đồng với hoạt động bảo tồn hỗ trợ cho phát triển du lịch sinh thái tại Cù Lao Chàm.

Sự ra đời của KBTB và sau đó là KDTSQ đã hỗ trợ cho cộng đồng Cù Lao Chàm cơ sở thuận lợi phát triển du lịch. Qua mô hình Cù Lao Chàm, một lần nữa định nghĩa của du lịch sinh thái đã được minh chứng rất rõ nghĩa " Du lịch sinh thái là bảo tồn và lợi ích cộng đồng".

TS Chu Mạnh Trinh

Không gian văn hóa du lịch biển đảo tại Hà Nội

Những hiện vật bằng gốm mới khai quật sẽ được trưng bày tại sự kiện lần này.

Từ 21 - 23/11, Ban Tổ chức dành không gian trang trọng nhất tại Trung tâm Triển lãm văn hóa nghệ thuật Việt Nam (số 2 Hoa Lư) để đón chào những sự kiện này.
Tác động đầu tiên của "Tuần lễ văn hóa du lịch biển đảo Việt Nam - Hà Nội 2014" đến thị giác người xem sẽ là kho báu đồ sộ, phong phú mới được phát hiện trong đợt khai quật khảo cổ tàu cổ cù lao chàm mới đây. Bức tranh khảo cổ ấy sẽ được giới thiệu đầy đủ trong triển lãm "Di sản văn hóa, du lịch biển đảo Việt Nam". Bà Nguyễn Thị Hoa - Phó trưởng Ban Tổ chức chương trình cho biết: "Chỉ tính riêng đồ gốm khai quật đã có được 240 hiện vật, có nguồn gốc chủ yếu từ lò gốm Chu Đậu (tỉnh Hải Dương) vào thế kỷ XV. Tại đây, cũng trưng bày bộ sưu tập ngư cụ đánh bắt và công cụ lao động sản xuất của cư dân vùng biển đảo". Và triển lãm cũng dành cả không gian để người Hà Nội thể hiện tình cảm với biển đảo quê hương. 60 bức tranh mỹ thuật của các tác giả Hà Nội về biển đảo và 100 bức ảnh về nét đẹp văn hoa biển đảo Việt Nam, du lịch lễ hội... Sẽ là những hiện vật nói lên tấm lòng ấy.
Nói về biển đảo quê hương, có thể nhìn từ quá khứ để khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam từ xa xưa, nhưng cũng không thể quên công lao xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của lực lượng biên phòng, cảnh sát biển ngày nay. Hàng trăm tư liệu, hiện vật tiêu biểu của bộ đội biên phòng các tỉnh, TP biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, phối hợp với các lực lượng chức năng để làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh vùng biển, kiểm soát tàu; hay công việc đời thường nhất là dạy học xóa mù chữ, vận động Nhân dân ra khơi cũng sẽ được giới thiệu.
Bà Nguyễn Thị Hoa nhấn mạnh, giá trị cuốn hút nhất của không gian văn hóa du lịch biển đảo chính là việc 30 nghệ nhân của huyện đảo Lý Sơn sẽ trình diễn "đặc sản" di sản vùng biển như bả trạo, hò giật chì và hát ông đối đáp... Vượt hàng trăm cây số về với Thủ đô, những người con đất biển chỉ mong muốn truyền lửa cho thế hệ trẻ Việt Nam về tình yêu quê hương đất nước, cùng chung tay tăng cường bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam.

Trưng bày Di sản văn hóa biển Việt Nam


 

Bình gốm cổ tàu đắm cù lao chàm

 

Trong số nhiều hoạt động diễn ra và những triển lãm trưng bày dịp này, chuyên đề về "Di sản văn hóa, du lịch biển đảo Việt Nam” hứa hẹn mang đến những khám phá thú vị. Theo đó, khu trưng bày này sẽ tập trung giới thiệu những giá trị vật thể và phi vật thể những di vật, cổ vật được tìm thấy ở các vùng biển Việt Nam, đặc biệt là những hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm. Đây là kho báu đồ sộ, phong phú, riêng đồ gốm khai quật được trên 240.000 hiện vật, có nguồn gốc chủ yếu từ lò gốm Chu Đậu-Hải Dương thế kỷ 15. Tại đây, cũng trưng bày bộ sưu tập ngư cụ đánh bắt và công cụ lao động sản xuất của cư dân vùng biển đảo.

 

Bên cạnh đó, khu trưng bày chuyên đề "Xây dựng và bảo vệ biển đảo Tổ quốc” sẽ giới thiệu những chiến công của Bộ đội Biên phòng trong bảo vệ độc lập, chủ quyền biển đảo; trưng bày 121 tư liệu, bản đồ lịch sử khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; giới thiệu về lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam với những chiến công trong việc xây dựng bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn trên biển.

 

Triển lãm cũng dành riêng không gian trưng bày 60 tranh mỹ thuật của các tác giả Hà Nội về đề tài biển đảo và 100 bức ảnh về nét đẹp văn hóa Việt Nam: du lịch, lễ hội, cuộc sống ở các vùng biển đảo…Và hệ thống tranh cổ động về văn hóa biển đảo Việt Nam treo dọc tuyến phố Hoa Lư.

 

Minh Hương

Cù Lao Chàm nâng chất lượng nhân lực phục vụ du lịch sinh thái

Canô cao tốc đưa du khách tham quan cù lao chàm. (Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN)




Theo khảo sát năm 2005, khoảng 1/3 tổng số các chủ hộ gia đình ở Cù Lao Chàm có trình độ văn hóa cấp hai và khoảng 40% không được tiếp nhận một sự học vấn nào.

Hơn 30% vợ hoặc chồng của các chủ hộ gia đình này là mù chữ và khoảng chừng 25% có trình độ văn hóa cấp 2.

Ngoài học vấn, các trình độ nghề nghiệp khác như kinh nghiệm và kiến thức về đánh bắt hải sản là rất quan trọng đối với sinh kế tại Cù Lao Chàm.

Cải thiện năng lực quản lý và bảo vệ tài nguyên

Nắm bắt được những thuận lợi và hạn chế của nguồn lực này, ngay từ những ngày đầu, Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm đã tập trung vào việc nâng cao nhận thức và đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng.

Trong thời gian từ năm 2003-2006, một chương trình nâng cao năng lực quản lý và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường đã được tổ chức rộng rãi cho người làm công tác quản lý và cộng đồng của tỉnh, huyện, xã; 19 thành viên cấp thành phố và tỉnh tham gia năm chuyến tham quan khảo sát các mô hình và học tập trao đổi kinh nghiệm tại các khu bảo tồn biển, vườn quốc gia, hội nghị bảo tồn quốc tế ở các nước Thái Lan, Malaysia, Singapore, Anh, Trung Quốc và Australia.

Có 116 thành viên, trong đó bao gồm 40 cán bộ và 76 người dân địa phương tham quan học tập các mô hình bảo tồn trong nước.

Các điểm đến tham quan học tập trong nước là các khu bảo tồn Núi Chúa, Phong Nha-Kẻ Bàng, Phú Quốc, Côn Đảo, Vịnh Hạ Long, Cần Giờ, Hòn Mun, Rạng Trào, hội an, Mỹ Sơn và Huế.

800 người, trong đó gần 75% thành viên từ cộng đồng địa phương tham gia đào tạo, nâng cao nhận thức, kỹ thuật và ngành nghề hỗ trợ cho phát triển sinh kế với tổng số 29 khóa tập huấn tại Hải Phòng, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang và Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong thời gian ba năm từ 2003-2006, đã có gần 2/3 tổng số dân cư trên đảo tham gia các hoạt động đào tạo và nâng cao nhận thức, cụ thể là có hơn 1.868 người lớn, trong đó có khoảng 50% là phụ nữ, 606 trẻ em tham gia.

Tại thành phố Hội An đã có gần 334 l ượt người tham dự các hoạt động nâng cao nhận thức về bảo tồn.

Từ năm 2006-2013, nguồn lực con người của cộng đồng Cù Lao Chàm được tiếp tục cải thiện và nâng cao thông qua các chương trình đào tạo và hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn sinh kế tại địa phương.

Nếu như trong giai đoạn từ 2003-2006, nguồn lực con người chủ yếu được tập trung vào sự hiểu biết về bảo tồn, lợi ích kinh tế, cũng như kiến thức về quản lý bảo tồn, thì trong giai đoạn 2006-2013, phần lớn đầu tư cụ thể vào học tập, chuyển giao các sinh kế mới và xây dựng các mô hình trình diễn nhằm gắn kết người dân tham gia vào các hoạt động du lịch sinh thái thông qua bảo tồn.

Hơn 60% số dân, khoảng 1.576 người tại Cù Lao Chàm ở độ tuổi 19-65, một nguồn lực rất tiềm năng cho lao động sản xuất. Dân cư Cù Lao Chàm được xem là một nguồn dân cư khỏe mạnh với bầu không khí trong lành, thức ăn đạm bạc và đầy ắp các hoạt động cơ bắp.

Tuy xuất phát điểm ban đầu của trình độ học vấn có thấp so với người dân những địa phương khác, nhưng nguồn lực con người khỏe mạnh của Cù Lao Chàm được liên tục đào tạo nâng cao năng lực đã sáng tạo và thích ứng với nhiều sinh kế mới gắn liền với hoạt động du lịch sinh thái tạo cơ hội nâng cao thu nhập và cải thiện được chất lượng cuộc sống.

Các sinh kế mới gắn liền với du lịch tại Cù Lao Chàm đó là nhà hàng tại các bãi biển; xe máy vận chuyển khách; nghỉ dưỡng tại hộ gia đình; vận chuyển khách bằng thuyền; bán hàng lưu niệm; bán thủy sản khô; làm bánh; bán thủy sản tươi sống; cửa hàng tổng hợp và lao động mùa vụ.

Tăng cường nguồn lực tài chính

Vào những năm xây dựng Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, khoảng chừng 67% tổng số hộ gia đình đã vay vốn từ các ch ương tr ình tín chấp tại địa phương, hội đoàn thể, hoặc người thân và bạn bè.

Các hộ gia đình này đã từng mong muốn có được sự tiếp cận tốt hơn đến nhiều nguồn tài chính và được vay nhiều tiền hơn.

Có 50% trong tổng các hộ gia đình vay vốn đầu tư vào ngư cụ, ghe thuyền đánh bắt và 40% vay vốn đầu tư vào các hoạt động sản xuất khác không phải thủy sản, như chăn nuôi hoặc mở hàng quán buôn bán.

Trong thời gian từ năm 2006-2013, nguồn lực tài chính đối với cộng đồng Cù Lao Chàm đã và đang được cải thiện với nhiều cách tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng chính sách, hỗ trợ sinh kế LMPA (sinh kế cộng đồng trong và xung quanh các KBTB) và GEF (Quỹ Môi tr ường toàn cầu) với lãi suất ưu đãi, trong đó có 76 số hộ gia đình được vay 1,172 tỷ đồng từ nguồn LMPA, và 450 triệu đồng cho 45 hộ gia đình làm nghề khai thác cua đá.

Năm 2012, Ngân hàng Nông nghiệp đẵ đặt trạm giao dịch tại đảo, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con ngư dân vay và gửi tiền. Phần lớn nguồn lực tài chính của người dân tập trung vào đầu tư các trang thiết bị khai thác nguồn lợi biển như ghe, tàu, lưới đánh cá.

Gần đây hoạt động du lịch được nở rộ tại khu vực đảo, bà con còn tập trung đầu tư mở rộng homestay, nhà hàng, tàu chuyên chở khách du lịch.

Nguồn lực tài chính còn được biểu hiện thông qua thu nhập và sự đa dạng các nguồn thu nhập của cộng đồng, nhất là từ khi người dân đảo tham gia vào các hoạt động du lịch sinh thái.

Theo số liệu thống kê trong 10 năm qua, dân số tại Cù Lao Chàm không thay đổi lớn, tổng số dân trên dưới 2.500 người, đến nay thành phần nghề nghiệp đã thay đổi nhiều, nhất là các sinh kế mới ra đời cùng với sự phát triển của du lịch.

Năm 2005, số người già, trẻ em, nhân viên Nhà nước là 13,5%, người làm nghề làm biển là 35,75%, sinh viên 1%, nội trợ 13,75%, lao động phổ thông 4%, lao động nông nghiệp và rừng 7,25%, lao động làm thuê nghề biển 4,75%.

Ước tính hơn 740 người trong độ tuổi lao động chịu nhiều rủi ro và ít có cơ hội tạo thu nhập tại Cù Lao Chàm. Đến năm 2012, đã có 485 người trong số lao động này có hội tìm được việc làm tại địa phương từ 12 sinh kế mới theo các hoạt động dịch vụ du lịch sinh thái mang lại, với mức thu nhập trên 62 triệu đồng/ngày.

Với tốc độ phát triển du lịch như hiện nay, vào năm 2012-2013, trung bình một năm người dân tiếp đón du khách 10 tháng, mỗi tháng 30 ngày và như vậy cộng đồng Cù Lao Chàm có thể thu nhập thêm 18,6 tỷ đồng/năm, đó là chưa kể số thu từ nguồn phí tham quan lặn biển./.